Tìm kiếm

#06 Bản tin Hiệp hành | Châu Á gửi gì cho Thượng Hội đồng sắp tới?

Trong bản tin lần này, chúng ta sẽ lược qua Tài liệu Đúc kết của Khóa họp Thượng Hội Đồng cấp châu lục của Giáo Hội Á châu.

Ban phân định và soạn thảo Tài liệu Đúc kết gồm có Đức Hồng y Charles Bo của Myanmar, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Á Châu, Đức Tổng Giám mục Isao Kikuchi của Nhật Bản, Tổng Thư ký của Hội đồng Giám mục Á Châu, và 9 thành viên khác, trong đó có cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Hai Tính, tu sĩ Dòng Tên Việt Nam.

Trước hết, tài liệu nói về bối cảnh của Á Châu, một châu lục lớn nhất thế giới cả về khu vực địa lý và dân số. Khoảng 4,6 tỷ người ở Á Châu sử dụng hơn 2.300 ngôn ngữ. Á Châu còn là cái nôi của các tôn giáo lớn như Ấn giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, vv. Số tín hữu Công giáo tại Á Châu chiếm khoảng 3,31%. Dù là một thiểu số tại các miền của Á Châu, Giáo hội góp phần rất lớn vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và hướng tới những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Bên cạnh đó, hàng ngàn linh mục, tu sĩ nam nữ, cùng với giáo dân truyền giáo và giáo lý viên đang tham gia vào việc đào tạo đức tin và phục vụ các nhu cầu thiêng liêng và mục vụ của cộng đồng Công giáo khắp Châu Á.

Tài liệu đúc kết nêu lên những kinh nghiệm về niềm vui khi nói rằng “Cuộc hành trình mà chúng ta đã bắt đầu này giúp chúng ta nhận ra bản chất thực sự của Giáo hội và khả năng nhìn thấy tình cảnh của Giáo hội. Kinh nghiệm về niềm vui được nâng cao bởi vì tiến trình thượng hội đồng chắc chắn là một nơi chốn của ân sủng, gặp gỡ và biến đổi.”

Tài liệu cũng nói rằng “Là người Công giáo ở Châu Á, sống trong sự đa dạng, chúng ta tìm cách nâng cao chất lượng tình bằng hữu của chúng ta với người khác bằng cách lắng nghe, tôn trọng và quan tâm lẫn nhau, để chúng ta có thể là một ‘người mẹ tốt’ và một tấm gương mang lại hòa bình và thống nhất cho thế giới.”

Tài liệu cũng lưu ý về thực tế là nhiều Kitô hữu ở Châu Á “chịu nhiều mối đe dọa vì giữ đức tin của họ” đến mức phải chịu “những hình thức ‘tử đạo’ mới.”

Trong số những vết thương gây tiếng vang đối với Giáo hội tại Châu Á là: “lạm dụng liên quan đến tài chính, quyền tài phán, lương tâm, quyền hành và tình dục,” “thiếu sự tham gia đầy đủ của phụ nữ vào việc quản trị và ra quyết định,” “thiếu hiểu biết và thất bại trong việc cung cấp sự chăm sóc mục vụ đầy đủ cho một số nhóm người là thành phần của Giáo hội nhưng thường khó khăn trong việc cảm thấy được chào đón,” “sự xâm nhập của các ý thức hệ như: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa vật chất,” và việc cấm cản tiếng nói của Giáo hội bởi “các chế độ áp bức.”

Tài liệu đúc kết tiếp tục rằng chính những “niềm vui và vết thương” khắp Châu Á này có thể trở thành “cơ hội” khám phá một con đường mới, một tầm nhìn mới tiến đến một Giáo hội hiệp hành: “Giáo hội phải bắt đầu với tinh thần hòa nhập, nơi mọi người đều cảm thấy được chào đón và cảm giác thuộc về bên trong căn lều Giáo hội. Như là một dân tộc của Thiên Chúa, không ai bị loại trừ; ngay cả khi họ mỏng dòn và yếu đuối, thì tính bao gồm trong Giáo hội là điều bắt buộc đối với Giáo hội hiệp hành.

Một số thực tại Châu Á, chẳng hạn như sự đa dạng của các tôn giáo, “đòi buộc” Giáo hội phải tham gia vào cuộc đối thoại, xây dựng hòa bình, hòa giải và hòa hợp. Trên thực tế, tài liệu lưu ý rằng “ở một số nơi, việc thúc đẩy đối thoại này chỉ là sáng kiến của Giáo hội Công giáo và có những lúc không có sự hỗ tương.” Đặc biệt việc đối thoại thường được xem là việc của giáo sĩ chứ không phải của giáo dân.

Tiến trình hiệp hành đã kêu gọi sự lắng nghe nhau cách rộng rãi để mang lại sự biến đổi ở tất cả các cấp độ của Giáo hội. Cùng với giáo dân và các nam nữ tu sĩ, những người nói rằng họ không được lắng nghe hoặc không có tiếng nói trong Giáo hội, một số linh mục cảm thấy rằng họ không được lắng nghe đầy đủ, thậm chí đến mức cảm thấy bị bỏ rơi.

Tài liệu cũng cho thấy có một “ý thức mạnh mẽ” hơn nữa là “Giáo hội hướng nội” ở Châu Á cần hướng tới một “sứ mệnh đi ra” thông qua một “cách tiếp cận có tính truyền giáo, cộng đồng và hội nhập hơn.”

Về những căng thẳng tại Á Châu, Tài liệu Đúc kết lưu ý rằng có một “sự chia rẽ” trong Giáo hội, giữa linh mục và giáo dân, Giám mục và linh mục, Giám mục và các dòng tu, các nhóm và phong trào thuộc Giáo hội, các giáo phận, các Hội đồng và thậm chí giữa Giáo hội và chính quyền hay các tôn giáo. Tài liệu nói rằng trong tinh thần của một Giáo hội tham gia, kinh nghiệm lãnh đạo trong theo mô hình “phục vụ” cần được quan tâm nhiều hơn để sống tính hiệp hành.

Tài liệu cũng nói rằng sự tham gia này thường bị ngăn cản bởi “các phong cách lãnh đạo ngăn chặn (thậm chí đôi khi loại trừ) những người khác sống theo ơn gọi bí tích rửa tội của họ để trở thành môn đệ đích thực.” “Các mô hình lãnh đạo phục vụ bị cản trở và đôi khi phản tác dụng khi các linh mục có xu hướng thống trị và thậm chí được coi là áp đặt, độc đoán và quyền hành đối với giáo dân.” Điều này, tài liệu viết, có thể được khắc phục thông qua việc “mở rộng không gian cho khả năng về thừa tác vụ giáo dân như tư vấn và hướng dẫn giới trẻ, chăm sóc người bệnh, giáo dục và bảo vệ trẻ em.”

Tài liệu cũng nói đến sự thiếu trách nhiệm chung trong việc phân định và đưa ra quyết định, sự thiếu trách nhiệm và thiếu minh bạch trong việc thực thi quyền lực, tài chính dẫn đến sự chia rẽ.

Tài liệu cũng đánh giá lại những hiện tượng như thiếu ơn gọi linh mục và thiếu giới trẻ trong Giáo hội. 

Những căng thẳng khác mà Tài liệu đề cập đến liên quan đến các xung đột tôn giáo và chủ nghĩa giáo sĩ trị.

Trong khi thừa nhận một số lượng lớn người châu Á có kinh nghiệm di cư, tài liệu thừa nhận rằng nhiều người trong số họ đã “trở thành những nhà truyền giáo Tin Mừng khi họ mang theo không chỉ kinh nghiệm sống mà còn cả đức tin của họ.” Do đó, một cách mà Giáo hội có thể đón nhận họ là “kết hợp và đồng hành với họ trên hành trình này với tư cách là những nhà rao giảng mới của Tin Mừng”

Sáu ưu tiên của Giáo Hội tại Á Châu đã được xác định trong Tài liệu chung kết là: (1) đào tạo-huấn luyện, (2) hội nhập và đón tiếp, (3) các môn đệ truyền giáo, (4) trách nhiệm giải trình và minh bạch, (5) cầu nguyện và phụng vụ, và (6) môi trường. Mỗi lĩnh vực này xác định một khía cạnh cần thiết cho một Giáo hội hiệp hành “tìm cách đổi mới bộ mặt trái đất” theo gương Chúa Giêsu, Đấng “đến để cứu chuộc và hòa giải mọi sự.”

Tóm tắt tiến trình Khóa họp Thượng Hội đồng cấp châu lục ở Châu Á, tài liệu đúc kết ám chỉ đến tập quán văn hóa ở Châu Á là cởi bỏ giày dép trước khi bước vào một ngôi nhà hoặc một ngôi đền. Đó là “dấu hiệu của sự tôn trọng” và nhận thức về “những người khác mà chúng ta đang bước vào cuộc sống của họ.” Việc cởi bỏ giày dép nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta “đứng trên đất thánh”, do đó khiến chúng ta “biết về trái đất” mà “chúng ta được kêu gọi để bảo vệ và chăm sóc.”

“Giày có thể là biểu tượng của địa vị. Bằng cách cởi chúng ra, chúng ta nhận ra rằng chúng ta bình đẳng như là những con người. Đi chân trần, chúng ta trở nên ý thức và cũng đồng hóa mình với những người nghèo nhất giữa chúng ta.”

“‘Cởi giày ra’ khiến chúng ta ý thức hơn nữa về đất đai, mảnh đất mà chúng ta đang bước lên. Nó làm cho Giáo Hội cảm thấy gần gũi hơn với thực tế cơ bản của người dân Châu Á.” Hiệp hành diễn tả kinh nghiệm của chúng ta về Giáo hội có tính tương quan, theo bối cảnh và truyền giáo, đồng hành cùng nhau trong sự khiêm nhường và hy vọng.”

Vatican News Tiếng Việt

 

 

Cảm ơn bạn đã đọc bài viết này. Nếu bạn muốn nhận các bản tin qua email, vui lòng đăng ký newsletter bằng cách nhấp vào đây.

01 tháng tư 2023, 19:38